“Đào tạo nguồn nhân lực y tế có trình độ đại học và sau đại học; Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; Cung cấp dịch vụ chất lượng cao để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng vùng Tây Nguyên và cả nước.”
“Đào tạo nguồn nhân lực y tế có trình độ đại học và sau đại học; Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; Cung cấp dịch vụ chất lượng cao để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng vùng Tây Nguyên và cả nước.”
Năm 1994, Trường Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk được thành lập. Đây là một trong những ngôi trường chuyên đầu tiên ở khu vực Tây Nguyên. Sau 25 năm xây dựng và phát triển, trường đã đạt nhiều thành tích nổi trội như: 4 năm liền dẫn đầu khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trong kì thi Học sinh giỏi Quốc gia, đứng thứ 4 toàn đoàn Olympic 30 tháng 4 năm 2018, Huân chương lao động hạng Nhì 3 lần,.... Đóng vai trò quan trọng, đào tạo học sinh năng khiếu, góp phần vào công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hóa của khu vực Tây Nguyên.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được thể hiện qua ngôn ngữ, phong cách diễn tấu,... riêng biệt và độc đáo, chính vì thế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Loại hình văn học dân gian truyền miệng cũng là di sản văn hóa phi vật thể phong phú của các dân tộc Tây Nguyên, trong đó sử thi Đam San.
Tượng gỗ dân gian Tây Nguyên, chủ yếu là tượng nhà mồ một yếu tố không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Ê Đê. Dù mang nhiều dáng vẻ nhưng chúng gặp nhau ở một điểm là đều lấy cảm hứng từ đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và đời sống tâm linh gắn với phong tục tập quán của mỗi tộc người.
Ngoài những giá trị tiêu biểu nêu trên, Tây Nguyên còn có kho tàng di sản văn hóa phi vật thể khác, đó là kiến trúc nhà dài truyền thống... của các dân tộc Bắc Tây Nguyên, kiến trúc nhà dài của dân tộc Êđê; nghề dệt và trang phục. Đồng bào Tây Nguyên có nhiều hình thức lễ hội liên quan đến chu kỳ canh tác nương rẫy; lễ nghi vòng đời người; lễ hội cộng đồng,...
Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột, hay Buôn Ma Thuột cà phê Festival, là một lễ hội được tổ chức định kỳ 2 năm 1 lần ở thành phố Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắk Lắk, đây là một lễ hội lớn ở Tây Nguyên [17]. Nhằm tôn vinh cây cà phê, loài cây chiếm vị trí độc tôn trong cơ cấu cây trồng ở đây và chiếm đến 60% sản lượng cà phê của Việt Nam, loài cây đã đem lại sự ấm no, trù phú cho mảnh đất vùng cao này. Lễ hội mới chỉ bắt đầu được tổ chức từ năm 2005 trong chương trình quảng bá hình ảnh Thủ phủ cà phê Buôn Ma Thuột. Bên cạnh các hoạt động trao đổi về, quy trình, các thức, sản xuất, chế biến cà phê. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi. Hình thức giao dịch trực tuyến với thị trường thế giới.
Ngã 6 Ban Mê là trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột. Ở đây có Tượng đài chiến thắng Buôn Ma Thuột được coi như biểu tượng của thành phố.
Trước đây, khi mới giải phóng nơi đây chỉ là một vòng xoay với một cột đèn ba ngọn. Sau này một tượng đài được dựng lên với điểm nhấn chính chiếc xe tăng bằng sắt thép đã mở đầu trận đánh vào Buôn Ma Thuột. Đến những năm cuối thế kỷ trước thì tượng đài chiến thắng đã được xây dựng hoàng tráng như hiện nay. Nơi đây từng có một chiếc xe tăng T-34 của Nga nhưng nó được đưa vào bảo tàng năm 1997 và thay thế vào đó là một chiếc xe mô hình.
Cây Kơnia, hay còn gọi là Cốc, là một loài cây thân gỗ lớn, cao 15–30 m, đường kính 40–60 cm, tên khoa học là Irvingia malayana, thuộc họ Irvingiaceae. Loài cây này mang ý nghĩa tâm linh rất lớn đối với người đồng bào dân tộc thiểu số, họ coi chúng là nơi trú ngụ của thần thánh, của vong linh những người đã khuất, rất ít khi họ đụng chạm đến chúng, chặt phá chúng; vì vậy trên nương rẫy của đồng bào thường có các cây Kơ nia cổ thụ được sử dụng như cây che mát mỗi lúc nghỉ giải lao, nghỉ trưa. Do bài hát Bóng cây Kơ-nia nổi tiếng vì vậy du khách khi đến Buôn Ma Thuột luôn muốn tìm xem tận mắt cây Kơ Nia. Ở trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột có một cây Kơ nia cổ thụ nằm trong khuôn viên sân sau nhà văn hóa trung tâm tỉnh, cách ngã 6 Ban Mê vài trăm mét.
Buôn AKô Đhông hay Buôn Cô Thôn, làng Ma Rin là một buôn làng người Ê Đê ở thành phố Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk. AKô Đhông theo tiếng Ê Đê có nghĩa là buôn đầu nguồn vì nó ở đầu nguồn một con suối lớn ở Buôn Ma Thuột là suối Ea Nuôl. Ở đây nguồn suối bắt đầu cũng chính là bến nước cũ của buôn, một bến nước rất đẹp nhưng hiện tại không còn được sử dụng do bị ô nhiễm vì ở ngay trung tâm thành phố.
Buôn nằm ở cuối đường Trần Nhật Duật- thành phố Buôn Ma Thuột. Đây là một buôn được quy hoạch rất đẹp và giữ được nhiều giá trị truyền thống, hiện tại là một điểm du lịch hấp dẫn của thành phố. Nằm trong quy hoạch khu trưng bày lịch sử của Buôn Ma Thuột.
Món ăn này có sợi bún to, màu đỏ đặc trưng được làm từ gạo xay nhuyễn, tạo nên hương vị dai dai, hấp dẫn. Nước dùng được nấu từ gạch cua, thịt heo, tôm khô và các loại gia vị đặc biệt, tạo nên vị ngọt thanh, đậm đà khó quên. Bún đỏ thường được ăn kèm với rau sống, chả lụa và tóp mỡ.
Cơm lam được nấu từ gạo nếp thơm dẻo, nướng trong ống tre non, tạo nên hương vị thơm lừng, hấp dẫn. Gà nướng được tẩm ướp gia vị đậm đà, nướng trên than hồng đến khi chín vàng, da giòn, thịt mềm ngọt. Sự kết hợp hoàn hảo giữa cơm lam dẻo thơm và gà nướng đậm đà chắc chắn sẽ làm hài lòng những thực khách khó tính nhất.
Cá lăng là loại cá đặc sản của sông Sêrêpôk, thịt cá chắc, ngọt, ít xương. Lẩu cá lăng được nấu với nước dùng chua cay, thơm ngon, kết hợp với các loại rau rừng như rau đắng, rau má, tạo nên hương vị độc đáo, khó quên.
Gỏi lá là món ăn đặc trưng của người Ê Đê, được chế biến từ các loại lá rừng non như lá bứa, lá sung, lá xoài, kết hợp với thịt heo luộc, tôm, cá suối và các loại gia vị đặc biệt. Món ăn này có vị chua chua, chát chát, the the, mang đến cảm giác thanh mát, lạ miệng.
Rượu cần là thức uống truyền thống của người dân Tây Nguyên, được làm từ gạo nếp lên men, ủ trong ché. Rượu cần có vị ngọt thanh, nồng nàn, thường được uống bằng cần tre trong các dịp lễ hội, cưới hỏi.
Ngoài những món ăn đặc sản kể trên, Buôn Ma Thuột còn có nhiều món ăn vặt hấp dẫn khác như:
Do Buôn Ma Thuột là nơi đầu tiên người Kinh lưu lạc đến lập nghiệp để xây dựng Đăk Lăk hôm nay nên ở đây tập trung hầu hết các di tích có ý nghĩa lịch sử của Đăk Lăk như:
Đặc biệt, thành phố Buôn Ma Thuột có 05 di tích lịch sử, văn hoá được công nhận cấp quốc gia và cấp tỉnh, trong đó có 04 di tích cấp quốc gia, gồm: Nhà đày Buôn Ma Thuột, Đình Lạc Giao, Biệt Điện Bảo Đại số 04 Nguyễn Du, Bia tưởng niệm 100 chiến sỹ Nam tiến và 01 di tích cấp tỉnh là di tích Tượng đài Mậu thân 1968. Đây là những chứng tích hào hùng của truyền thống lịch sử lập nước, giữ nước của các dân tộc tỉnh Đắk Lắk nói chung và thành phố Buôn Ma Thuột nói riêng. Các di tích văn hoá lịch sử của thành phố Buôn Ma Thuột đều có giá trị phục vụ du lịch cao. Những di tích lịch sử văn hoá nêu trên, tuy chưa phải là tất cả, song cũng đủ để chứng minh rằng, giá trị nhân văn được thể hiện đậm nét qua các di tích lịch sử, văn hoá và có thể khai thác một cách có hiệu quả trong việc phục vụ du lịch của thành phố Buôn Ma Thuột [18].
Du khách cũng có thể đến với làng văn hóa buôn AKô Đhông, ngắm cây Kơ nia cổ thụ giữa lòng thành phố sát Ngã 6 Ban Mê, thưởng thức hương vị cà phê Ban Mê,...
Với vị trí trung tâm và giao thông thuận tiện Buôn Ma Thuột cũng chính là trung tâm du lịch lớn nhất của Đăk Lăk nối các điểm du lịch quan trọng trong tỉnh như Bản Đôn, Hồ Lắk, cụm thác Đray Sáp...Về cơ bản dịch vụ du lịch còn yếu kém và hạn chế, bên cạnh đó rừng bị tàn phá ồ ạt, phá vỡ cảnh quan chung.
Sân bay Buôn Ma Thuột (mã sân bay IATA: BMV, mã sân bay ICAO: VVBM) là một sân bay hỗn hợp dân sự và quân sự tại thành phố Buôn Ma Thuột. Trước năm 1975, sân bay này vốn là sân bay quân sự Hòa Bình hay còn gọi là Phi trường Phụng Dực do VNAF quản lý.[19] Sân bay có đường băng dài 3.000 m, rộng 45 m có thể tiếp nhận những máy bay tầm ngắn như ATR72, F70, tầm trung như A320, A321, B767 và có đèn chiếu sáng phục vụ bay đêm, trong khi đó công suất thiết kế nhà ga 1.900.000 lượt hành khách/năm. Đến năm 2030 phục vụ 3.000.000 hành khách/năm. Các tuyến bay gồm có:
Với tổng mức đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng, nhà ga hành khách Cảng hàng không Buôn Ma Thuột chính thức được khánh thành 24/12/2012. Nhà ga mới có công suất đáp ứng đến năm 2020 là 1,9 triệu hành khách/năm. Cảng hàng không Buôn Ma Thuột nằm tại địa bàn Thôn 8 xã Hòa Thắng, TP. Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk) - là một trong 8 cảng hàng không địa phương trực thuộc Tổng công ty Cảng hàng không miền Nam. Việc mở rộng nâng cấp cảng hàng không Buôn Ma Thuột là dự án cần thiết góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng khu vực Tây Nguyên. Theo như Quy hoạch chung thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - tầm nhìn đến năm 2025, Cảng Hàng không Buôn Ma Thuột sẽ được nâng cấp lên Cảng Hàng không quốc tế, đẩy mạnh phát triển tỉnh Đắk Lắk nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung.
Dự án tuyến đường sắt Tuy Hòa - Buôn Ma Thuột đã được Xí nghiệp Tư vấn thiết kế công trình giao thông sắt bộ thuộc Công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải phía Nam xây dựng hoàn chỉnh. Toàn tuyến đường sắt có chiều dài 160 km, đi qua 8 ga, xuất phát từ ga Phú Hiệp và điểm cuối là ga Buôn Ma Thuột. Nhưng đối với nền khoa học và kinh tế, cùng quản lý nước nhà thì đây chỉ là viễn cảnh định hướng đề ra không biết khi nào mới thành hiện thực (đã có chủ trương tạm hoãn, đưa ra khỏi quy hoạch).
Theo quy hoạch, Buôn Ma Thuột là trung tâm của hệ thống đường sắt Tây nguyên trong tương lai [20]; ga đầu mối nối các tuyến đi Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế và quốc phòng khu vực Tây nguyên rộng lớn.
Ngoài việc thay đổi tên cho một số tuyến đường và các tên đường cũ bao gồm: Hàm Nghi, Lê Lợi, Phan Đình Phùng, Nguyễn Du, Cao Thắng, Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Thái Học vẫn được sử dụng để đặt tên cho các tuyến đường nhỏ và vừa ở các phường ở thành phố Buôn Ma Thuột.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về
Điện thoại: (84) 02623.825181 FAX: (84) 02623.825184
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Khoa Y Dược là một trong những khoa thuộc trường Đại học Tây Nguyên, được thành lập ngay từ ngày đầu tiên thành lập Trường (ngày 11 tháng 11 năm 1977). Ngày 02 tháng 04 năm 1996, Bộ Gíao dục và đào tạo ra quyết định số 124/GD ĐT chuyển khoa Y thành khoa Y Dược. So với các trường Y Dược khác thì khoa Y Dược trường Đại học Tây Nguyên là một trong các khoa (Trường Y Dược) ra đời sớm, xa trung ương và gặp không ít khó khăn trên bước đường xây dựng và phát triển.
Nằm tại thành phố Buôn Ma Thuột, trung tâm của Tây Nguyên - Khoa Y Dược có một vị trí đặc biết trong chiến lược đào tạo nhân lực kỹ thuật cao, phục vụ trực tiếp cho đào tạo nguồn nhân lực y tế Tây Nguyên, góp phần phòng chống bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và Miền Trung.
Được Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương quan tâm, được sự chỉ đạo sát sao, đoàn kết và thống nhất của Đảng bộ, Ban giám hiệu, trong suốt 45 năm qua, Chi bộ Khoa Y Dược, Bệnh viện trường, Ban chủ nhiệm Khoa Y Dược đã chung vai cùng cán bộ viên chức và các đoàn thể chính trị - xã hội của khoa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu mà Nhà trường giao phó.
Sau 42 năm ra đời, khoa Y Dược đã trưởng thành và lớn mạnh về nhiều mặt: đã đào tạo được gần 5000 bác sĩ đa khoa và hàng trăm cử nhân điều dưỡng, một đội ngũ thầy thuốc khá lớn tham gia công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh Duyên hải Miền Trung, đã đóng góp rất lớn vào việc thực hiện các chiến lược chăm sóc sức khỏe cho nhân dân của bộ Y tế trong những thập kỷ vừa qua.
Trong số những sinh viên học tập và tốt nghiệp từ Khoa Y Dược, trường Đại học Tây Nguyên, đã có rất nhiều người trưởng thành và thành đạt, một số người đã đứng ở vị trí hàng đầu trong một số chuyên ngành. Hầu hết các bác sĩ hiện đang giữ những vị trí lãnh đạo của ngành (giám đốc, phó giám đốc các sở, bệnh viện, Viện nghiên cứu, các trung tâm y tế ) của các tuyến thuộc các tỉnh Tây Nguyên.
Lực lượng giảng dạy của Khoa được đào tạo đúng chuyên Ngành từ các trường có uy tín trong và ngoài nước, số lượng giảng viên được tăng cường từ nhiều nguồn: Giảng viên được đào tạo ở nước ngoài, giảng viên từ các trường Đại học trên cả nước chuyển đến, sinh viên xuất sắc của một số trường Đại học được tiếp nhận làm công tác giảng dạy. Ngoài ra, Khoa Y Dược –Trường Đại học Tây Nguyên còn có một đội ngũ hơn 60 giảng viên kiêm nhiệm công tác nhiều cơ quan tham gia đào tạo Ngành Y đa khoa như Viện Vệ sinh – Dịch tễ Tây Nguyên, ở các Bệnh viện Đa khoa Tỉnh (Đăk Lăk, Gia Lai, Khánh Hòa, Ninh Thuận), ở các Bệnh Đa khoa huyện trong Tỉnh Đăk Lăk và Tỉnh Đăk Nông (CưMgar, Krông Păk, Buôn Đôn, Cư Kuin, Krông Ana, Krông Bông, Cư Jut…) và Bệnh viện Trường Đại học Tây Nguyên.
Đào tạo nguồn nhân lực ngành Y Đa khoa Điều Dưỡng, Kỹ thuật xét nghiệm Y học có trình độ Đại học, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân của vùng Tây Nguyên, một số tỉnh duyên hải miền Trung và cả nước.
Ngoài ra, Khoa Y Dược còn đào tạo chuyên khoa I Nội tổng quát và Thạc sỹ Ký sinh trùng – Côn trùng.
Song song với công tác đào tạo, các giảng viên của Khoa còn tham gia nghiên cứu khoa học; tham gia công tác điều trị và chăm sóc sức khỏe bệnh nhân tại các bệnh viện khu vực: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk, Bệnh viện Đại học Tây Nguyên, Bệnh viện Lao và bệnh phổi, Bệnh viện tâm thần; tham gia các dự án trong và ngoài nước. Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy theo chủ trương chung của Trường và của Bộ; tăng cường dạy học tương tác, thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ; tập trung biên soạn và nâng cao chất lượng các giáo trình nội bộ; sử dụng phương tiện dạy học hiện đại; từng bước lượng hóa hoạt động đánh giá trong thi cử của sinh viên và trong sát hạch chất lượng giảng dạy của giáo viên theo tinh thần hội nhập để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo và sức cạnh tranh, đáp ứng những đòi hỏi khách quan trong tình hình mới của ngành Giáo dục và của toàn xã hội.
Khoa Y Dược – Trường Đại học Tây Nguyên là một trong những trung tâm giảng dạy về khoa học sức khỏe tại Việt Nam với sứ mệnh là “Đào tạo nhân lực, nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến trong lĩnh vực y tế; đóng góp có hiệu quả cho sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đặc biệt là vùng Tây Nguyên và một số tỉnh duyên hải miền Trung và góp phần nâng cao nền Y Dược học Việt Nam”. Tập thể Khoa Y Dược và các bên liên quan đã xây dựng sứ mệnh mới và định hướng phát triển của Khoa trong thế kỷ 21 là “Xây dựng một đội ngũ các thầy thuốc cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất nhằm làm giảm nỗi đau và bệnh tật cho con người”. Sứ mệnh này sẽ được thực hiện bằng chiến lược đầu tư vào các chương trình đào tạo cho đối tượng là sinh viên tốt nghiệp y khoa có năng lực cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiệu quả đến từng cá nhân và cộng đồng, có tinh thần hướng đến cộng đồng, đóng một vai trò tích cực trong phòng chống bệnh tật, điều trị hiệu quả, kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền, và làm việc hiệu quả trong những cơ sở có điều kiện chăm sóc sức khỏe khác nhau trong cả nước.
Ngoài ra, Khoa Y Dược, Trường Đại học Tây Nguyên còn cung cấp các kỹ thuật hỗ trợ nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe ở các tuyến cơ sở, và các khóa học đào tạo liên tục cho các bác sĩ tại khu vực Tây Nguyên. Hoàn thành các mục tiêu này sẽ đặt ra yêu cầu cho Khoa Y Dược –Trường Đại học Tây Nguyên về nâng cao tính chuyên nghiệp, điều trị lâm sàng, kỹ năng giảng dạy và nghiên cứu khoa học
TS BS. Thái Quang HùngPhó Trưởng Khoa
TS Đinh Hữu Hùng - Quản lý chung; Đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học, công tác sinh viên, đào tạo liên tục, khởi nghiệp.
TS BS. Thái Quang Hùng - Đào tạo Đại học, Vừa học vừa làm, Tự đánh giá chương trình đào tạo
- CN Lã Quý Xá: trợ lý chuyên trách đào tạo.
- CN Ninh Thị Kim Loan: Văn thư
- CN Lưu Thị Dung: Trợ lý chuyên trách đào tạo
- ThS Trần Thị Nguyên Đăng: Trợ lý kiêm nhiệm CSVC, NCKH và sau đại học.
- CN Nguyễn Thị Hoa - Trợ lý kiêm nhiệm công tác sinh viên
Hiện nay toàn thể khoa Y Dược có 126 cán bộ viên chức, trong đó bao gồm: có 03 PGS, 5 Tiến sĩ, 56 Thạc sĩ, 05 Bác sĩ CKI, 01 Bác sĩ CK2, 28 Bác sĩ, 1 Dược sĩ đại học, 18 Cử nhân, 01 KTV cao đẳng, 03 KTV viên trung cấp, 02 Y sĩ, 02 Nhân viên.
Trong đó có 3 giảng viên cao cấp, 14 giảng viên chính
Cán bộ gửi đi đào tạo tại các cơ sở Y học trong cả nước; trong đó, có 06 NCS, 20 Cao học, 03 CKII
- Bác sĩ đa khoa chính qui hệ 6 năm: mỗi năm tuyển khoảng 200 - 300 sinh viên theo chỉ tiêu của bộ và khoảng 70 sinh viên đào tạo theo địa chỉ từ 5 tỉnh Tây Nguyên, do địa phương đầu tư kinh phí đào tạo, nhưng chỉ xét trong số những thí sinh thi vào ngành Y nhưng không đủ điểm chuẩn.
- Bác sĩ hệ liên thông hệ 4 năm: mỗi năm đào tạo từ 70 - 100 sinh viên
- Cử nhân điều dưỡng hệ chính qui: mỗi năm đào tạo từ 50 – 70 sinh viên
- Cử nhân điều dưỡng tại chức: mỗi năm đào tạo từ 50 - 70 sinh viên
- Cao học Y sinh: mỗi năm đào tạo 15 – 40 học viên.
- Chuyên khoa I Nội: mỗi năm đào tạo 10 -40 học viên.
- Số lượng đề tài, dự án, trong đó:
1. Mai Văn Thìn, Nguyễn Thị Xuân Trang, Huỳnh Văn Thơ, Phan Văn Trọng (2009). B2007-15-11: Thể lực và một số bệnh thường gặp ở người cao tuổi tại thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk.
2. Hoàng Đức Linh, Nguyễn Thị Xuân Trang, Huỳnh Văn Thơ, Văn Hữu Tài, Lê Thị Lan và cs (2009). B2007-15-16: Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh đái tháo đường của cư dân ở TP Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk.
3. Phùng Minh Lương (2009). B2008-15-22: Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học viêm tai giữa ứ dịch ở trẻ em dân tộc Ê Đê.
4. Nguyễn Thị Xuân Trang, Nguyễn Hồ Sơn, Nguyễn Thị Hồng Vân (2009). B2008-15-23: Tình hình tai nạn và chấn thương ở những người cao tuổi tại Đăk Lăk.
5. Võ Thị Kim Loan, Nguyễn Thị Xuân Trang, Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Hữu Chính, Trần Thị Thu Phương (2012). B2010-15-40: Tỷ lệ mắc bệnh phụ khoa thông thường và một vài yếu tố liên quan ở phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ tại thành phố Buôn Ma Thuột.
56 đề tài cơ sở của cán bộ giảng viên (trong 9 năm từ 2008 -2017).
Năm 2015 có 5 đề tài cơ sở nghiệm thu đúng hạn vào tháng 12 năm 2015.
Năm 2016 có 5 đề tài nghiệm thu.
Năm 2017 có 6 đề tài cơ sơ thực hiện đúng tiến độ, sẽ nghiệm thu vào cuối năm 2017.
- Một số thành tích nổi bật của khoa:.
Hầu hết cán bộ Khoa Y Dược đã có khả năng độc lập tổ chức và triển khai thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và các dự án các cấp đạt kết quả cao.
Hàng năm, cán bộ của Khoa Y Dược đều có các đề tài nghiên cứu với nhiều qui mô khác nhau: cấp bộ, cấp tỉnh, cấp trường. Trong đó, có đề tài thuộc lĩnh vực lâm sàng, có đề tài thuộc lĩnh vực cộng đồng, có đề tài nghiên cứu về điều trị, có đề tài nghiên cứu về dự phòng.
Tất cả đều có giá trị ứng dụng trong thực tế, và đặc biệt được sử dụng như những bằng chứng khoa học trong quá trình giảng dạy cho sinh viên.
Từ năm 2000 đến nay, Khoa Y Dược đã thực hiện xong 6 dự án
- Dự án “Tăng cường đạo tạo bác sĩ đa khoa hướng cộng đồng” do đại sứ quán Hà Lan tài trợ, đã hoàn thành năm 2006.
- Dự án “Sức khoẻ sinh sản” do tổ chức Pathfinder tài trợ”, hoàn thành năm 2008.
Các dự án hoàn thành, Khoa đã có rất nhiều thuận lợi trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu: đã cùng với 7 trường đại học Y khác trong toàn quốc hoàn tất khung chương trình và chương trình chi tiết đào tạo bác sĩ đa khoa có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết về làm việc ở tuyến y tế cơ sở, gọi là “cuốn sách xanh”. Sau dự án, khoa cũng đã hoàn tất chương trình “giảng dạy thực địa” và có được 3 huyện làm cơ sở thực địa hàng năm cho sinh viên.
Các giảng viên được tăng cường nhiều kiến thức và kỹ năng trong giảng dạy: các phương pháp giảng dạy tích cực, các phương pháp lượng giá sinh viên, các phương pháp dạy và học trên lâm sàng, các phương pháp nghiên cứu khoa học, một số thầy cô được tu nghiệp nước ngoài,…và khoa còn được thừa hưởng nhiều trang thiết bị, sử dụng trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Dự án “SkillsLab” kết thúc: giúp thầy và trò khoa Y Dược có thêm cách học mới: học tiền lâm sàng, một phương pháp rất cần thiết giúp cho sinh viên tự tin trước khi thực hành các kỹ năng của một thầy thuốc trên người bệnh.
- Dự án “Nâng cao năng lực nhóm nòng cốt về nghiên cứu khoa học, giáo dục Y học, E-lerning, Quản lý và lập kế hoạch, Đánh giá kinh tế Y tế” được đại sứ quán Hà Lan tài trợ, đang hoạt động. Dự án này nhằm nâng cao năng lực làm việc và giảng dạy của một số giáo viên thuộc các lĩnh trên. Họ sẽ là nòng cốt để có thể tham gia đào tạo và đào tạo liên tục cho các thầy thuốc trong khu vực và có thể trở thành chuyên gia về lĩnh vực đó.
- Dự án “Tăng cường năng lực đào tạo bác sĩ y học dự phòng” được đại sứ quán Hà Lan tài trợ triển khai, nhằm đào tạo các bác sĩ làm công tác dự phòng cho khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
- Dự án “Cải thiện chăm sóc sức khoẻ cho người dân tộc thiểu số thông qua đào tạo” do tổ chức Pathfinder International tài trợ sẽ được bắt đầu từ tháng 12 năm 2009. Mục tiêu hoạt động của dự án là tăng cường đào tạo các thầy thuốc là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa để các thầy thuốc này trở về phục vụ cộng đồng mình, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho các cộng đồng dân tộc vùng sâu vùng xa.