Thuế giá trị gia tăng (VAT — Value-Added Tax), trước đây còn gọi là Thuế trị giá gia tăng là một dạng của thuế thương vụ và là một loại thuế gián thu được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp. Do VAT có mục đích là một khoản thuế đối với việc tiêu thụ, cho nên hàng xuất khẩu (theo định nghĩa này thì người tiêu dùng ở nước ngoài) thường không phải chịu thuế VAT hoặc cách khác, VAT đối với người xuất khẩu được hoàn lại.
Thuế giá trị gia tăng (VAT — Value-Added Tax), trước đây còn gọi là Thuế trị giá gia tăng là một dạng của thuế thương vụ và là một loại thuế gián thu được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp. Do VAT có mục đích là một khoản thuế đối với việc tiêu thụ, cho nên hàng xuất khẩu (theo định nghĩa này thì người tiêu dùng ở nước ngoài) thường không phải chịu thuế VAT hoặc cách khác, VAT đối với người xuất khẩu được hoàn lại.
VAT có thể thúc đẩy phát triển kinh tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và dự án đầu tư, giúp tạo ra công ăn việc làm và thúc đẩy sự phát triển.
Tổng cộng, VAT là một công cụ quan trọng trong việc quản lý tài chính công và hỗ trợ phát triển kinh tế trong nhiều quốc gia trên thế giới.
Để tính đươc VAT xuôi và VAT ngược quý khách cần có hiểu biết về VAT cụ thể như các kế toán, tài chính,... Tuy nhiên quý khách có thể hoàn toàn vào website đã tích hợp sẵn để app có thể tính hộ:
Tại website sau: https://tienich.bambu.vn/vat.aspx
Thuế giá trị gia tăng hay VAT mà bạn thắc mắc chính là thuế giá trị gia tăng được viết tắt của từ Value Added Tax. Thuế giá trị gia tăng (VAT), trước đây được gọi là Thuế trị giá gia tăng, là một loại thuế áp dụng trong lĩnh vực thương mại và là một hình thức thuế gián thu đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù việc nộp thuế này được thực hiện bởi các doanh nghiệp. Mục tiêu của VAT là thu thuế dựa trên việc tiêu dùng, do đó các hàng hóa xuất khẩu (được xem xét từ góc độ của người tiêu dùng ở nước ngoài) thường không phải chịu VAT hoặc khác biệt, thuế VAT đối với người xuất khẩu sẽ được hoàn lại. - Theo Wikipedia
Điều 2 Luật thuế giá trị gia tăng sửa đối 2016 quy định:
“Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
VAT có thể tạo ra sự phân biệt giữa các loại sản phẩm và dịch vụ. Điều này có thể dẫn đến việc áp dụng thuế theo mức độ khác nhau cho các ngành công nghiệp cụ thể, dẫn đến sự không công bằng và tranh chấp về tính công bằng.
Thuế giá trị gia tăng (VAT) là một loại thuế áp dụng trong lĩnh vực tài chính và thuế hóa, mà người tiêu dùng cuối cùng phải chịu trách nhiệm nộp, mặc dù doanh nghiệp là người thuế thu. VAT được thiết kế để thu thuế từ việc tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Điểm chính của VAT là các đối tượng chịu thuế là các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, và họ phải nộp số tiền VAT cho cơ quan thuế.
VAT chịu bởi người tiêu dùng cuối cùng, giúp phân phối gánh nặng thuế dựa trên mức độ tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể kiểm soát mức tiêu dùng của họ và do đó mức thuế mà họ phải chịu.
Thuế giá trị gia tăng (VAT) có một số khuyết điểm thường được đề cập bởi các nhà quản lý thuế và nhà lập pháp. Dưới đây là một số khuyết điểm phổ biến của VAT:
VAT đòi hỏi sự quản lý phức tạp, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp phải theo dõi, tính toán và nộp VAT đúng theo quy định của pháp luật, điều này có thể tạo thêm gánh nặng cho họ.
VAT có thể gây tăng giá cả cho sản phẩm và dịch vụ, vì thuế này thường được tính vào giá cuối cùng và chịu bởi người tiêu dùng. Điều này có thể ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng và gây áp lực lên hộ gia đình có thu nhập thấp.
Một số doanh nghiệp có thể tìm cách trốn thuế bằng cách tạo ra các giao dịch giả mạo hoặc thực hiện tình trạng không chính thống về tài chính để giảm bớt sự phải chịu VAT.
Thuế VAT hiện nay được chia thành ba mức: 8%, 5%, và 0%, và áp dụng cho các đối tượng chịu thuế tùy theo mức thuế tương ứng. Hiện tại, doanh nghiệp có hai lựa chọn về cách tính thuế VAT, bao gồm phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng (GTGT).
Người chịu thuế được quy định tại Điều 4 Luật Thuế giá trị gia tăng 2008 cụ thể như sau:
Văn bản hướng dẫn cụ thể người nộp thuế quy định tại Điều 3 Thông tư 219/2013/TT-BTC như sau:
Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (sau đây gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (sau đây gọi là người nhập khẩu) bao gồm:
- Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước (nay là Luật Doanh nghiệp), Luật Hợp tác xã và pháp luật kinh doanh chuyên ngành khác;
- Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự nghiệp và các tổ chức khác;
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nay là Luật đầu tư); các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam;
- Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu;
- Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ (kể cả trường hợp mua dịch vụ gắn với hàng hóa) của tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng không cư trú tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân mua dịch vụ là người nộp thuế, trừ trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT hướng dẫn tại khoản 2 Điều 5 Thông tư này.
Quy định về cơ sở thường trú và đối tượng không cư trú thực hiện theo pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về thuế thu nhập cá nhân.
- Chi nhánh của doanh nghiệp chế xuất được thành lập để hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Ví dụ 1: Công ty TNHH Sanko là doanh nghiệp chế xuất. Ngoài hoạt động sản xuất để xuất khẩu Công ty TNHH Sanko còn được cấp phép thực hiện quyền nhập khẩu để bán ra hoặc để xuất khẩu, Công ty TNHH Sanko phải thành lập chi nhánh để thực hiện hoạt động này theo quy định của pháp luật thì Chi nhánh hạch toán riêng và kê khai, nộp thuế GTGT riêng đối với hoạt động này, không hạch toán chung vào hoạt động sản xuất để xuất khẩu.
Khi nhập khẩu hàng hóa để thực hiện phân phối (bán ra), Chi nhánh Công ty TNHH Sanko thực hiện kê khai, nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu và khi bán ra (bao gồm cả xuất khẩu), Công ty TNHH Sanko sử dụng hóa đơn, kê khai, nộp thuế GTGT theo quy định.
Như vậy, trong trường hợp này, anh/chị sẽ phải đóng thuế giá trị gia tăng gián tiếp.
Ví dụ cụ thể như: anh/chị ghé cửa một cửa hàng tiện lợi mua một lon bia, thì người trực tiếp đóng thuế giá trị giá tăng đó là chủ cửa hàng và anh/chị là người gián tiếp đóng thuế này.
VAT có thể ảnh hưởng đến người tiêu dùng thông qua tăng giá cả, đặc biệt đối với các loại hàng hóa thiết yếu. Điều này có thể gây áp lực lên người dân, đặc biệt là những người có thu nhập thấp.
Mặc dù VAT có những khuyết điểm này, nó vẫn được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới do khả năng tạo nguồn thuế ổn định cho chính phủ và thúc đẩy tính minh bạch trong thu thuế.