Sử dụng vôi để cải thiện độ pH và độ kiềm trong ao nuôi trồng thủy sản ngày nay được ứng dụng rộng rãi. Ngoài ra nó còn nhiều ưu điểm khác như khử trùng đáy ao và nước nhằm mục đích tiêu diệt các vi sinh vật không mong muốn, trung gian truyền bệnh. Chúng ta có thể thấy bón vôi có ba lợi ích quan trọng:
Sử dụng vôi để cải thiện độ pH và độ kiềm trong ao nuôi trồng thủy sản ngày nay được ứng dụng rộng rãi. Ngoài ra nó còn nhiều ưu điểm khác như khử trùng đáy ao và nước nhằm mục đích tiêu diệt các vi sinh vật không mong muốn, trung gian truyền bệnh. Chúng ta có thể thấy bón vôi có ba lợi ích quan trọng:
- Với người thuộc châu Mỹ và Mỹ Latinh, Canxi hidroxit được sử dụng để nấu chung với ngô. Điều này sẽ giúp món ăn tăng thêm giá trị dinh dưỡng, thơm ngon, mềm và giúp tiêu hóa dễ dàng hơn.
- Vôi tôi được dùng như một chất kết bông để xử lý nước và nước thải nhờ vào đặc tính hóa học là có thể tác dụng với axit và ăn mòn một số kim loại có mặt trong nước.
- Là chất giúp tăng lượng canxi cho những động vật cần nhiều canxi để tồn tại như tảo, ốc, giun ống cứng, san hô trong các bể nuôi đá ngầm.
Canxi hidroxit là một chất nguy hiểm:
- Vôi tôi Ca(OH)2 thường được sử dụng để làm giảm hoặc trung độ pH, khử phèn, khử chua đất trồng trọt. Bên cạnh đó nó cũng là thành phần trong một số hóa chất nông nghiệp.
- Canxi hidroxit được sử dụng để sản xuất các loại thuốc Polikar nhằm bảo quản các loại quả, rau, của tránh nhiễm nấm mốc, hư hỏng.
- Trong xây dựng, vôi tôi là một thành phần vô cùng quan trọng để tạo hỗn hợp kết dính các nguyên liệu khác, cũng như trát tường. Sở dĩ, Ca(OH)2 được ưa chuộng vì hỗn hợp nước và vôi khá dảo, tương tự như hồ thì chúng có khả năng kết dính cao. Khi để ngoài không khí, chúng sẽ tự khô lại mặc dù khá chậm bởi hơi nước tồn tại trong không khí.
- Hàm lượng axit có trong da thuộc là không hề nhỏ, nên trong ngành công nghiệp da thuộc người ta sử dụng Ca(OH)2 để trung hòa phần axit dư thừa
+ Ca(OH)2 được dùng để sản xuất (C17H35COO)2Ca (stearat canxi)
+ Dùng Ca(OH)2 tác dụng với axit clorua HCl để sản xuất Canxi clorua CaCl2
+ Dùng Ca(OH)2 tác dụng với dioxit cacbon để sản xuất Canxi cacbonat CaCO3
+ Dùng Ca(OH)2 tác dụng với CuCl2 để sản xuất Đồng hidroxit Cu(OH)2
- Trong ngành công nghiệp dầu mỏ, Canxi hidroxit được dùng để tạo các loại phụ gia cho dầu thô như sulphatic, fenatic, alkilsalicatic. Vôi tôi có khả năng tạo kết tủa, giúp loại bỏ các tạp chất, để sản xuất dầu sạch, nguyên chất.
- Trong công nghiệp thực phẩm dùng hóa chất xử lý nước thải từ các nhà máy sản xuất đồ uống như rượu hoặc không chứa cồn vì nó làm kết tủa các chất bẩn, đồng thời Canxi hidroxit cũng giúp cân bằng độ pH của nước.
- Đối với những người Mỹ có nguồn gốc chính là châu Phi, nó được dùng để thay thế cho NaOH Natri hidroxit dùng trong một vài loại thuốc, hóa chất làm tóc.
- Chế tạo clorua vôi dùng để tẩy trắng và khử trùng.
- Trong công nghiệp sơn, vôi tôiđược sử dụng để sản xuất các hỗn hợp khô, dùng cho trang trí.
- Canxi hidroxit được sử dụng để loại bỏ Canxi cacbonat và Magie cacbonat trong nước biển trong công nghiệp sản xuất muối ăn và muối y tế.
- Ở dạng bột nhão, canxi hidroxit được dùng trong nha khoa, chất chống lại tác nhân gây sâu răng.
- Là thành phần của một số loại thuốc.
- Sản xuất một số loại thuốc thúc đẩy quá trình rụng lông.
Thuốc dùng cho nha khoa Calcium Hydroxide
- Canxi hidroxit được dùng làm thuốc thử để nhận biết ion CO32- nhờ tạo thành muối CaCO3 kết tủa.
Dùng nước sạch rửa mắt ngay lập tức. Chớp mắt trong khi rửa ít nhất 15 phút. Nếu không thể trở về bình thường cần đưa nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất để thăm khám và chữa trị tiếp.
Cởi bỏ trang phục đang mặc bị dính hóa chất. Dùng nước sạch rửa vị trí da bị bắn vào nhiều lần, nên dùng thêm xà phòng nếu có. Nếu sự lây nhiễm nặng, cần đưa ngay nạ nhân tới cơ sở y tế gần nhất để điều trị tiếp.
Nếu uống nhầm, nuốt phải hóa chất, tuyệt đối không được kích ứng gây nôn. Cho nạn nhân uống thật nhiều nước. Nếu nạn nhân nôn cần giữ đầu nạn nhân cao hơn phần hông, tránh cho nạn nhân hít lại phải hơi độc. Đối với trường hợp nạn nhân bất tỉnh, không được cho bất cứ thứ gì vào miệng của họ đồng thời nới rộng quần áo như tháo bỏ cà vạt, dây thắt lưng. Đưa nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất để kiểm tra, điều trị tiếp.
Di chuyển nạn nhân tới khu vực thông thoáng, giữ đầu nạn nhân sao cho thuận tiện nhất với việc hô hấp. Nếu nạn nhân không thở nữa, ngay lập tức tiến hành các sơ cứu như hô hấp nhân tạo. Khi nạn nhân ổn định hơn thì đưa tới cơ sở y tế gần nhất.
Vôi tôi hay canxi hidroxit là một bazo tan có công thức phân tử là Ca(OH)2 và khối lượng phân tử là 74.093 g/mol. Nó là dung dịch kiềm của một trong những oxit bazo mạnh và có tính bazo trung bình- mạnh.
- Làm thay đổi màu sắc của các chất chỉ thị màu
+ Nhúng quỳ tím vào dung dịch Ca(OH)2 sẽ khiến giấy quỳ chuyển sang màu xanh.
+ Nhỏ Ca(OH)2 vào dung dịch phenolphtalein sẽ khiến chúng từ không màu chuyển sang màu hồng.
- Tác dụng với axit để tạo thành muối với nước
Ca(OH)2 + 2HNO3 → Ca(NO3)2 + 2H2O
- Tác dụng với oxit axit tạo thành muối và nước
3Ca(OH)2 + P2O5 → Ca3(PO4)2↓ + 3H2O
Muối được tạo ra phụ thuộc vào tỷ lệ oxit axit trong phản ứng.
+ Nếu số mol oxit axit thấp hơn hoặc bằng 1 thì muối được tào thành là muối HCO3-
+ Nếu số mol oxit axit lớn hơn hoặc bằng 2 thì muối được tào thành là muối CO32-
CO2 + Ca(OH)2 → CaCO3(kết tủa) + H2O
+ Nếu số mol oxit axit trong khoảng từ 1 đến 2 thì muối được tào thành là muối HCO3- và CO32-
- Tác dụng với dung dịch muối tạo thành muối mới và bazo mới
Ca(OH)2 + MgCl2 → Mg(OH)2 + CaCl2
Ca(OH)2 + Mg(HCO3)2 → CaCO3 + MgCO3 + 2H2O
Canxi hidroxit hay còn gọi là vôi tôi tồn tại ở thể rắn có thể không màu hoặc màu trắng, tan một phần trong nước để tạo thành dung dịch nước vôi trong. Trong tự nhiên nó tồn tại trong một loại khoáng chất là portlandit.
Khi đem nung Canxi hidroxit tới mức nhiệt 512oC, chúng sẽ bị phân hủy để tạo thành oxit canxi và hơi nước. Thể vẩn của Ca(OH)2 rất mịn, ở trong nước nó màu trắng như sữa, sánh nên được gọi là vôi sữa.
+ Khu vực cất trữ phải đảm bảo thoáng gió, mát mẻ, không bị ẩm ướt.
+ Các bao chứa phải bền chắc, có độ kín cao, không thủng, rách.
+ Không cất giữ cùng địa điểm với những chất xung khắc như axit, hydrogen peroxyt và các chất có tính oxy hóa mạnh.
+ Các bao chứa Canxi hidoxit phải để riêng biệt, tránh lẫn lỗn với thức ăn cũng như đồ uống.
+ Có biển bảng ghi cảnh báo nguy hiểm tại nơi chứa các bao hóa chất.
+ Mặc đầy đủ các trang phục bảo hộ lao động tương thích với hóa chất gồm găng tay, quần áo, giày ủng, khẩu trang, mặt nạ phòng độc,…
+ Không ăn, uống hay hút thuốc khi đang làm việc với hóa chất.
+ Trang phục bảo hộ cần phải sạch sẽ trước khi dùng và được làm sạch lại sau khi sử dụng xong.
Một số phương pháp chính được sử dụng để điều chế vôi tôi - Canxi hidroxit:
CaCO3 + Q(nhiệt lượng) → CaO + CO2
Thả CaO vào nước ta được Ca(OH)2 hay còn gọi là vôi tôi dùng trong xây dựng để trộn lẫn với cát, xi măng, nước tạo thành hỗn hợp vữa làm chất kết dính.
Có nhiều dạng vôi được sử dụng cơ bản là làm tăng khả năng đệm của nước ao nuôi và tăng pH. Trộn 10% vôi trong nước cất và đo pH của dung dịch sẽ xác định được vôi sử dụng là loại vôi gì.
1. Vôi nông nghiệp/ bột Calcium Carbonate (CaCO3)
Các dạng vôi này thường là đá vôi. Chất lượng của chúng cũng khác nhau. Ví dụ như khi có trộn lẫn đất. Vôi thường được khuyến cáo sử dụng là loại vôi có chứa từ 75% CaCO3 trở lên. Đá vôi mịn là thích hợp nhất cho ao nuôi tôm. Loại vôi này được sử dụng để làm tăng khả năng đệm của nước, ổn định kiềm, tăng cường khoáng Calci giúp tôm cứng vỏ, khoẻ mạnh và nặng cân và có thể được sử dụng với số lượng lớn vì nó không gây ảnh hưởng nhiều đến pH của nước. Dung dịch 10% vôi trong nước cất phải có pH khoảng 9. Lượng vôi thường bón là 100 – 300 kg/ha/lần.
Đây là loại đá vôi nghiền khác có chứa ma-giê (Mg). Loại vôi này được sử dụng chủ yếu để tăng khả năng đệm của nước và cung cấp ma-giê. Giống như vôi nông nghiệp, loại vôi này cũng ít ảnh hưởng đến pH của ao. - Dung dịch 10% vôi trong nước cất phải có pH từ 9 đến 10. - Lượng vôi thường bón là 100 – 300 kg/ha/lần. - Dolomite, vôi nông nghiệp, đá vôi,còn được gọi là vôi chứa can xi.
3. Vôi tôi hay vôi ngậm nước (Ca(OH)2) - Loại vôi này được sản xuất bằng cách nung đá vôi ở nhiệt độ cao 800 – 900oC. Sau khi nung thì cho nước vào khi đá vôi còn nóng để làm cho vôi mịn ra. Vôi tôi được dùng để làm tăng pH nước hoặc pH đất. - Dung dịch 10% vôi trong nước cất phải có pH từ 11. - Lượng vôi thường bón là 50 – 100 kg/ha/lần. - Vì vôi tôi có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến pH nước nên tránh bón vôi cho ao vào buổi chiều khi pH ao thường cao nhất. 4. Vôi sống/ vôi nung (CaO)
Loại vôi này cũng được sản xuất bằng cách nung đá vôi ở nhiệt độ cao nhưng không cho nước vào. Dạng vôi hoạt tính cao này có ảnh hưởng rất lớn đến pH của nước nên không dùng để bón cho những ao đang nuôi tôm mà chỉ nên sử dụng để điều chỉnh pH đất khi chuẩn bị ao, hạ phèn vùng đất mới nhiễm phèn hữu cơ do xác động thực vật lâu năm. Khử phèn hữu cơ sinh ra từ đất mùn, khử khí độc trong đất, khử phèn vô cơ do trời mưa và phân bón hoá học gây ra. Dung dịch 10% vôi trong nước cất phải có pH =12.
Sau khi dọn sạch chất thải cần cho một ít nước vào ao để rửa trôi các mảnh vụn đồng thời cũng để kiểm tra độ pH của nước. Lượng nước này nên để qua đêm rồi tháo cạn. Có thể lặp lại như thế nhiều lần cho tới khi độ pH ổn định ở mức trên 7.
II. Cách bón vôi Lượng vôi sử dụng cho ao sau lần tháo rửa cuối cùng tùy thuộc vào từng ao. Vôi dùng trong trường hợp này nên là vôi nông nghiệp (CaCO3) hay Dolomite (CaMg(CO3)2) để tạo pH và độ kiềm thích hợp nhất. Nên hạn chế lượng vôi bón vào giai đoạn chuẩn bị ao vì vôi sẽ được bón thêm trong quá trình nuôi. Việc bón vôi trước khi bơm nước vào ao bất tiện ở chỗ nó sẽ làm giảm hiệu quả của việc bón bột tẩy sau này để ngăn ngừa các sinh vật khác vào ao nuôi tôm. Nếu nước ao có độ kiềm và pH cao (>80 mg CaCO3/l và pH>8) thì không cần phải bón bất kỳ loại vôi nào trong giai đoạn này.
Chỉ nên bón vôi tôi (Ca(OH)2) hay vôi sống (CaO) trong trường hợp đất ao quá phèn (pH<5). Nếu dùng vôi tôi và vôi sống để tăng pH đất ao thì pH nước tăng lên đáng kể khi lấy nước vào ao, và điều này đặc biệt thể hiện rõ khi hệ đệm nước ao kém. Hiện tượng pH cao cũng sẽ kéo dài đáng kể và khó điều chỉnh trong ao nuôi thay nước ít. Lượng vôi bón khuyến cáo dùng trong giai đoạn chuẩn bị tùy thuộc vào pH của đất. Độ pH của đất có thể đo bằng máy đo pH đất hoặc có thể phơi khô đất trong bóng râm rồi cho vào nước cất với khối lượng bằng nhau, quậy kỹ cho tan đều và để lắng một đêm, sau đó đo độ pH của dung dịch. Theo cách này, có thể sử dụng dung dịch đo pH hoặc giấy đo pH. Vôi cần được rải đều khắp đáy ao kể cả bờ ao. Một phần lớn vôi nên rải ở khu vực cho tôm ăn và các chỗ còn ướt của đáy ao. Việc bón vôi thêm được thực hiện khi lấy nước vào ao.