Theo các nghiên cứu, việc sử dụng nguồn nước ô nhiễm, con người dễ bị nhiễm chì, hay gặp nhất là các bệnh về thận, thần kinh, cơ thể thiếu sức sống; nhiễm Natri gây bệnh về cao huyết áp, tim mạch; nhiễm Cadimi có thể gây đau lưng, thoái hóa cột sống; nhiễm độc các hợp chất hữu cơ, thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản thực vật gây cảm giác nôn ói hoặc ngộ độc. Theo thống kế của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm có đến 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém. Có khoảng 20.000 người mắc bệnh ung thư, nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước; 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng tại Việt Nam do thiếu nước sạch và vệ sinh kém.
Theo các nghiên cứu, việc sử dụng nguồn nước ô nhiễm, con người dễ bị nhiễm chì, hay gặp nhất là các bệnh về thận, thần kinh, cơ thể thiếu sức sống; nhiễm Natri gây bệnh về cao huyết áp, tim mạch; nhiễm Cadimi có thể gây đau lưng, thoái hóa cột sống; nhiễm độc các hợp chất hữu cơ, thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản thực vật gây cảm giác nôn ói hoặc ngộ độc. Theo thống kế của Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi năm có đến 9.000 người tử vong do nguồn nước và vệ sinh kém. Có khoảng 20.000 người mắc bệnh ung thư, nguyên nhân chính là do ô nhiễm nguồn nước; 44% trẻ em bị nhiễm giun và 27% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng tại Việt Nam do thiếu nước sạch và vệ sinh kém.
Như đã chia sẻ ở trên, môi trường sống ở gia đình là yếu tố quan trọng, có sức ảnh hưởng lớn đối với trẻ nhỏ. Do đó, cha mẹ cần phải quan tâm và đầu tư nhiều về khía cạnh này. Cần sắp xếp và dành nhiều thời gian ở bên cạnh trẻ, dành cho trẻ những sự quan tâm, yêu thương, gắn kết.
Trẻ nhỏ khi có được mối quan hệ bền chặt, khăng khít cùng với gia đình sẽ dễ dàng phát triển một cách ổn định, khỏe mạnh về cả mặt thể chất lẫn tinh thần. Vì thế, cha mẹ đừng ngần ngại dành cho con những sự thương yêu, những lời động viên, chia sẻ để con cảm nhận được rõ tình cảm và sự vui vẻ khi sống cùng các thành viên trong một gia đình.
Môi trường ở trường học có sự ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của trẻ. Chính vì thế, khi trẻ đến tuổi đi học, cha mẹ cũng nên cân nhắc kỹ lưỡng về việc lựa chọn ngôi trường phù hợp với trẻ. Khi trẻ đến trường, trẻ sẽ được tiếp xúc với nhiều bạn bè, thầy cô hơn, thời gian trẻ sinh hoạt ở trường lớp cũng chiếm phần lớn nên nó có thể tác động rất nhiều đến suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của trẻ.
Chính vì thế, các bậc phụ huynh cần chú ý nhiều hơn để lựa chọn trường học cho con. Đồng thời cũng cần phải thường xuyên liên lạc, trao đổi với giáo viên, nhà trường để nắm được tình hình học tập, hòa nhập của trẻ nhỏ, từ đó sẽ có hướng hỗ trợ và tạo điều kiện để trẻ phát triển tốt hơn.
Không chỉ trẻ nhỏ mà ngay cả người lớn cũng rất thích nhận được những lời khen ngợi và động viên. Thay vì liên tục la mắng, trách phạt hay sử dụng đòn roi để giáo dục con cái, các bậc phụ huynh hãy nên nhẹ nhàng hơn để khuyên bảo và dạy dỗ trẻ từ những điều nhỏ nhặt nhất.
Trẻ sẽ có thêm những sự nỗ lực và cố gắng nhiều hơn khi nhận được những lời động viên, khen ngợi và tán thưởng từ cha mẹ hoặc người thân của mình. Vì thế, khi trẻ hoàn thành tốt một nhiều vụ nào đó, phụ huynh hãy nên khuyến khích con bằng những lời khuyến khích, tuyên dương.
Hoặc nếu trẻ đạt được một thành tích tốt, hãy dành cho trẻ một phần quà nhỏ dựa theo sở thích của trẻ. Điều này không chỉ giúp trẻ phấn đấu nhiều hơn mà còn tạo cho trẻ một cảm giác gần gũi, thân thuộc với chính cha mẹ, người thân của mình, giúp trẻ luôn cảm thấy thoải mái và an tâm khám phá, thử thách thêm nhiều điều thú vị xoay quanh cuộc sống.
Thông tin của bài viết này đã giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của môi trường sống đối với sự phát triển nhân cách và tâm lý của trẻ nhỏ. Các bậc phụ huynh nên tạo nhiều điều kiện thuận lợi để trẻ có thể sinh hoạt và trưởng thành trong môi trường lành mạnh, tích cực, giúp trẻ phát triển một cách ổn định và toàn diện nhất.
Ảnh hưởng đến nguồn nước Rác thải sinh hoạt nếu không được xử lý đúng cách có thể gây ô nhiễm nguồn nước. Các chất độc hại có trong rác thải như hoá chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng sẽ dung hoà vào nước làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước mặt và nước ngầm. Rác thải sẽ mang các loại vi sinh vật, chất hữu cơ đưa vào môi trường gây ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của các loại sinh vật sống trong nước, làm giảm đa dạng sinh học. Nguồn nước ô nhiễm sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt và mọi ngành nghề của đời sống các hoạt động sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản gây ảnh hưởng xấu đến đời sống và kinh tế của cộng đồng. Ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái Sự tích tụ của rác thải sinh hoạt gây ra sự suy thoái môi trường. Nếu không được xử lý đúng sẽ làm ô nhiễm đất, giảm chất lượng đất và suy thoái đất, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây trồng và sinh thái địa phương. Quá trình phân huỷ của rác thải sinh hoạt tạo ra các khí như methane và carbon dioxide… đóng góp vào hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Điều này đã gây nên sự mất cân bằng sinh thái tổng thể của môi trường, là nguyên nhân dẫn đến mất cân bằng sinh thái trong chuỗi thức ăn tự nhiên, làm giảm khả năng chống chọi với dịch bệnh. Ảnh hưởng của rác thải sinh hoạt đến con người Rác thải sinh hoạt gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe con người. Trong thành phần rác thải sinh hoạt, thông thường hàm lượng hữu cơ chiếm tỉ lệ lớn. Các loại rác hữu cơ dễ phân huỷ gây hôi thối, phát triển vi khuẩn gây hại làm ô nhiễm, mất vệ sinh môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe. Khu tập trung rác là nơi thu hút, phát sinh và phát triển chuột, ruồi, muỗi, gián, các loại vi trùng gây nhiều chứng bệnh truyền nhiễm cho con người, vật nuôi trong gia đình. Những người sống gần bãi rác hoặc tiếp xúc thường xuyên với rác như những người làm công việc thu nhặt các phế liệu từ bãi rác, dễ mắc các bệnh như viêm phổi, sốt rét, các bệnh về mắt, tai, mũi họng, bệnh ngoài da, bệnh phụ khoa… Xác động vật bị thối rữa trong hơi thối có chất amin và các chất dẫn xuất Hydro sunfua (H2S) hình thành từ sự phân huỷ rác thải kích thích sự hô hấp của con người, kích thích nhịp tim đập nhanh gây ảnh hưởng xấu đối với những người mắc bệnh tim mạch. Các bãi rác công cộng là những nguồn mang dịch bệnh. Các loại vi trùng gây bệnh thực sự phát huy tác dụng khi có các vật chủ trung gian gây bệnh tồn tại trong các bãi rác như những ổ chứa chuột, ruồi, muỗi... và nhiều loại ký sinh trùng gây bệnh cho người và gia súc, một số bệnh điển hình do các trung gian truyền bệnh như: Chuột truyền bệnh dịch hạch, bệnh sốt vàng da do xoắn trùng, ruồi, gián truyền bệnh đường tiêu hoá; muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết... Tác hại của rác thải sinh hoạt đối với con người và môi trường là rất dễ nhận thấy. Mặc dù việc loại bỏ hoàn toàn rác thải sinh hoạt là điều không thể, tuy nhiên mỗi người dân có thể góp phần làm giảm tác hại của rác thải sinh hoạt đối với môi trường và chính cuộc sống của chúng ta bằng cách nâng cao ý thức hơn thông qua những việc làm nhỏ như không vứt rác bừa bãi, hãy tận dụng rác nếu còn có thể (ví dụ như túi nilon, rác hữu cơ…) để góp phần hạn chế thải rác ra môi trường và bảo vệ cuộc sống của chính mình ngày một tốt hơn. Để bảo vệ sức khỏe của bản thân, cộng đồng cũng như làm cho môi trường sống không bị ô nhiễm bởi rác thải, mỗi người dân hãy nêu cao ý thức bảo vệ môi trường từ những hành động nhỏ hằng ngày.
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bắc Á
Nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến Vận dụng kế toán môi trường của các doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên. Kết quả nghiên cứu xác định có 5 nhân tố ảnh hưởng, bao gồm: Lĩnh vực hoạt động sản xuất của doanh nghiệp; Nguồn lực tài chính; Nhận thức của chủ thể doanh nghiệp và Áp lực của các bên liên quan; Quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán môi trường. Trong đó, nhân tố Lĩnh vực hoạt động sản xuất tác động mạnh nhất đến việc Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất tại tỉnh Hưng Yên.
Từ khóa: kế toán, môi trường, doanh nghiệp sản xuất
This study identifies factors affecting the application of environmental accounting in manufacturing enterprises in Hung Yen province. The research results identify 5 influencing factors, including the Field of production activities of the enterprise; Financial resources; Awareness of the enterprise leaders and Pressure of related parties; and Enterprise size affecting the application of environmental accounting. Among them, the Field of production activities of the enterprise factor creates the strongest impact on the application of environmental accounting in manufacturing enterprises in Hung Yen province.
Keywords: accounting, environment, manufacturing enterprise
Ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu đang là một vấn nạn đe dọa chất lượng sống của con người, cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, quốc gia. Vấn đề môi trường từ lâu đã là chủ đề muôn thuở của nhân loại. Tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi sự phát triển của doanh nghiệp phải gắn liền với trách nhiệm môi trường của họ (Vuong và Nguyen, 2024). Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới việc bảo vệ môi trường, với việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 450/QĐ-TTg, ngày 13/4/2022 phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, các doanh nghiệp ngoài quá trình sản xuất ra các sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu thị trường, còn phải tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường và đảm bảo quá trình xử lý các đầu ra khác bao gồm các chất thải theo đúng quy định. Để thực hiện các quy định pháp lý về môi trường và thể hiện trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp phát sinh nhiều loại chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường như xử lý chất thải, xử lý ô nhiễm không khí... Thực tiễn này đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải có thông tin kế toán về hoạt động bảo vệ môi trường phát sinh tại doanh nghiệp kịp thời, đầy đủ, tin cậy và có hệ thống, nhằm quản lý hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Sự khan hiếm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường đã trở thành đối tượng của các cuộc tranh luận về kinh tế, xã hội và chính trị trên toàn thế giới. Các quốc gia, trong đó có Việt Nam đang từng bước xây dựng chiến lược môi trường và ưu tiên trong công tác bảo vệ môi trường nhằm giảm thiểu, ngăn chặn các tác động của ô nhiễm môi trường. Nhà nước đã ban hành một số quy định pháp lý hạn chế sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm mục tiêu phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời hạn chế tối đa các hành vi vi phạm, hủy hoại môi trường, gây ô nhiễm môi trường. Để thực hiện các quy định pháp lý đó, tất yếu sẽ phát sinh thêm nhiều chi phí liên quan đến môi trường, bảo vệ môi trường, xử lý các tác động đến môi trường và nâng cao chất lượng môi trường trong hợp đồng kinh doanh của các DN và trong triển khai các dự án đầu tư. Do đó, các nhà quản lý cần phải có nhiều thông tin hơn về chi phí liên quan đến môi trường phát sinh.
Hưng Yên có 17 khu công nghiệp đang đi vào hoạt động nhằm tạo việc làm, an sinh xã hội và đóng góp GDP cho Tỉnh. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của nhân dân. Do vậy, vấn đề môi trường tại các doanh nghiệp này cần phải được chú trọng để bảo vệ môi trường tại các địa phương.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Kế toán môi trường là lĩnh vực xác định việc sử dụng tài nguyên, đo lường và truyền đạt chi phí về tác động kinh tế quốc gia hoặc của công ty đối với môi trường. Chi phí bao gồm chi phí để làm sạch hoặc khắc phục các địa điểm bị ô nhiễm, tiền phạt, và thuế môi trường, mua công nghệ ngăn ngừa ô nhiễm và chi phí quản lý chất thải (Deegan, 2013).
Kế toán môi trường với tư cách là một tiểu mục của kế toán đề cập đến các hoạt động, phương pháp và hệ thống cũng như ghi chép, phân tích và báo cáo các tác động tài chính và tác động sinh thái được thuyết phục về mặt môi trường của một hệ thống kinh tế xác định cũng nhấn mạnh 2 mặt của kế toán môi trường, các khía cạnh phi tiền tệ và tiền tệ (Burritt và cộng sự, 2002). Dữ liệu tiền tệ bao gồm chi phí nguyên vật liệu của sản phẩm và đầu ra phi sản phẩm, chi phí kiểm soát chất thải và khí thải, chi phí phòng ngừa và quản lý môi trường khác, chi phí nghiên cứu và phát triển và chi phí hữu hình ít hơn; ngược lại, dữ liệu vật lý hoặc môi trường bao gồm thông tin về nguyên liệu đầu vào (thưởng vật liệu phụ trợ, vật liệu đóng gói, hàng hóa, vật liệu vận hành, nước và năng lượng) và đầu ra (sản phẩm và sản phẩm phi sản xuất, như chất thải rắn, chất thải nguy hại, nước thải và khí thải) (Sumiani và cộng, 2007)
Theo Gauthier và cộng sự (1997), kế toán môi trường trong doanh nghiệp là một bộ phận của kế toán liên quan đến các vấn đề môi trường và không thể tách rời khỏi kế toán tài chính và kế toán quản trị. Đó là một hệ thống thông tin cho phép thu thập và phân tích dữ liệu, kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động, ra quyết định và trách nhiệm giải trình để quản lý các chi phí và rủi ro về môi trường.
Khái niệm kế toán môi trường được các tác giả nghiên cứu xem xét trên 2 khía cạnh: công tác hạch toán kế toán và công tác quản lý môi trường, hơn nữa trong các nghiên cứu cũng đã chỉ ra được nhiều lợi ích trong việc áp dụng kế toán môi trường như: cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến doanh thu chi phí môi trường cho các đối tượng liên quan bên trong, như: chủ doanh nghiệp trong việc ra quyết định nội bộ cũng như cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp như ngân hàng, tổ chức tín dụng, các cơ quan quản lý môi trường, cộng đồng, truyền thông… Ngoài ra, việc thực hiện kế toán môi trường sẽ giúp doanh nghiệp cải thiện được hiệu quả hoạt động trên 2 phương diện: hiệu quả hoạt động tài chính và hiệu quả hoạt động về môi trường.
Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Nhận thức của chủ doanh nghiệp về kế toán môi trường (NT). Theo nghiên cứu của Chang và Deegan (2010), Nhận thức của chủ doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện kế toán môi trường. Nghiên cứu cho rằng, người quản lý, nhà điều hành có hiểu biết về kế toán môi trường, đánh giá cao tính hữu ích của việc thực hiện kế toán môi trường, chấp nhận những chi phí phát sinh liên quan đến việc thực hiện kế toán môi trường sẽ ảnh hưởng đến quyết định thực hiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp sản xuất. Vấn đề nhận thức về sự hữu ích phản ánh sự hiểu biết về nền tảng kế toán môi trường, vai trò và tầm quan trọng của kế toán môi trường trong việc hỗ trợ quản trị doanh nghiệp và gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích xã hội. Áp dụng kế toán môi trường giúp cải thiện hình ảnh của tổ chức mà còn tăng cường mối quan hệ với cộng đồng và các bên liên quan. Do đó, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H1: Nhận thức của chủ doanh nghiệp về kế toán môi trường có tác động tích cực đến việc Vận dụng kế toán môi trường tại các doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên.
Áp lực của các bên liên quan (AL): Nhân tố này được đề cập trong các nghiên cứu của Al Kisher (2013), Jamil và cộng sự (2015) khi nghiên cứu các động của các áp lực từ phía cộng đồng, từ truyền thông báo chí hay áp lực từ cơ quan chính phủ về tiêu chuẩn bảo vệ môi trường sẽ tạo áp lực để các doanh nghiệp áp dụng kế toán môi trường. Vấn đề môi trường đang được các cơ quan quản lý nhà nước, dân cư rất quan tâm. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hưng Yên khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 15/6/2021 về Chương trình Bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, với quan điểm bảo vệ môi trường là nền tảng cho phát triển bền vững và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị cùng toàn xã hội; thu gom, xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt là trách nhiệm của toàn xã hội; mục tiêu của Nghị quyết là thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm ngăn ngừa, kiểm soát, xử lý triệt để ô nhiễm, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường tỉnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Dựa trên những lập luận trên, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H2: Áp lực của các bên liên quan có ảnh hưởng trực tiếp tới việc Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất tại tỉnh Hưng Yên.
Quy mô của doanh nghiệp (QM): Một doanh nghiệp lớn hơn thường có tổng nguồn lực lớn hơn và thông tin nội bộ tốt hơn tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng kế toán môi trường. Nghiên cứu của Christ và Burritt (2013), Ofoegbu và Cộng sự (2016) cho thấy, sự ảnh hưởng của quy mô đến việc thực hiện kế toán môi trường cụ thể doanh thu của doanh nghiệp càng lớn sẽ làm gia tăng mức độ khả thi của việc thực hiện kế toán môi trường. Do đó, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết sau:
H3: Quy mô doanh nghiệp có tác động tích cực đến việc Vận dụng kế toán môi trường trong doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên.
Lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp (LV): Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có hơn 7.000 doanh nghiệp, hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như: dệt may, nhuộm, da giày, sản xuất thép, thức ăn chăn nuôi, sản xuất và tái chế nhựa nên vấn đề ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí đang diễn ra nghiêm trọng… Ferreira và cộng sự (2010) chỉ ra rằng, các công ty có lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm, như: các ngành công nghiệp hóa chất, khai thác mỏ và luyện kim có nhiều khả năng áp dụng kế toán môi trường hơn tất cả các công ty khác được xem xét trong nghiên cứu. Các công ty sản xuất có lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm với môi trường có nhu cầu cao trong việc áp dụng kế toán môi trường bởi vì thường phát sinh các rủi ro ngoài dự kiến, tác động đến môi trường, khiến doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khoản bồi thường phát sinh, làm tăng chi phí, ảnh hưởng đến lợi ích doanh nghiệp. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H4: Lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp tác động tích cực đến việc Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên.
Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp (TC): Để thực hiện vấn đề môi trường và trách nhiệm xã hội đối với môi trường đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải đầu tư vốn để thực hiện công việc này. Nguồn lực tài chính là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng kế toán môi trường (Wachira, 2014; Jamil và cộng sự, 2015), cũng như công bố thông tin về môi trường (Nurul Huda, 2015); mặc dù nâng cao nhận thức về môi trường, việc thiếu nguồn lực tài chính là một vấn đề trở ngại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường ở doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đưa ra giả thuyết như sau:
H5: Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp càng lớn, thì việc Vận dụng kế toán môi trường sẽ thành công.
Dựa trên các nghiên cứu và giả thuyết đưa ra, nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như Hình.
Nhóm tác giả tiến hành khảo sát 320 doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, kết quả thu về được 295 phiếu đạt yêu cầu. Tác giả tiến hành làm sạch, mã hóa dữ liệu và đưa vào phân tích dưới sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 24. Khảo sát được thực hiện từ tháng 02/2024 đến tháng 3/2024 (Bài viết sử dụng cách viết số thập phân theo chuẩn quốc tế).
Bảng 1: Kết quả kiểm định thang đo
Trung bình thang đo nếu loại biến
Phương sai thang đo nếu loại biến
Cronbach’s Alpha nếu loại biến này
Nhận thức của chủ doanh nghiệp (NT); Cronbach’s Alpha = 0.819
Áp lực (AL); Cronbach’s Alpha = 0.817
Quy mô doanh nghiệp (QM): Cronbach’s Alpha = 0.762
Lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp (LV); Cronbach’s Alpha = 0.834
Nguồn lực tài chính(TC); Cronbach’s Alpha = 0.834
Vận dụng kế toán môi trường trong doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên (EMA); Cronbach’s Alpha = 0.871
Nguồn: Xử lý dữ liệu của nhóm tác giả
Kết quả phân tích (Bảng 1) cho thấy, hệ số Cronbach’s Alpha của các biến độc lập và biến phụ thuộc đều > 0.7 và hệ số tương quan biến tổng của các quan sát đều > 0.3, như vậy các biến này đều đảm bảo độ tin cậy và có thể dùng để thực hiện phân tích nhân tố khám phá (EFA) (Hair và cộng sự, 1998).
Bảng 2: Hệ số KMO của biến độc lập
Nguồn: Xử lý dữ liệu của nhóm tác giả
Kết quả phân tích (Bảng 2) cho thấy, chỉ số KMO = 0.665 thỏa điều kiện 0.5 < KMO < 1, chứng tỏ phân tích EFA là phù hợp với dữ liệu khảo sát thực tế. Mức ý nghĩa kiểm định Bartlett với Sig. = 0.000 (< 0.05), có thể kết luận rằng, có sự tương quan tuyến tính giữa nhân tố đại diện và các biến quan sát. Mức giá trị Eigenvalues > 1, kết quả phân tích được 5 nhân tố với 22 biến quan sát. Phương sai trích = 72.489% có nghĩa là các biến quan sát giải thích được 72.489% sự thay đổi của các nhân tố đến Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất tại tỉnh Hưng Yên.
Bảng 3: Hệ số KMO của biến phụ thuộc
Đối với biến phụ thuộc “Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất”, kết quả phân tích EFA cho thấy chỉ số KMO = 0.809 thỏa điều kiện 0.5 < KMO < 1, chứng tỏ phân tích EFA là phù hợp (Bảng 3).
Bảng 4: Kết quả phân tích phương sai ANOVA
Nguồn: Xử lý dữ liệu của nhóm tác giả
Kết quả phân tích phương sai ANOVA (Bảng 4) cho thấy, giá trị F = 8.744, với Sig.= 0.000 (< 5%), chứng tỏ R2 của tổng thể khác 0. Đồng nghĩa với việc mô hình hồi quy tuyến tính xây dựng được là phù hợp với tổng thể.
Bảng 5: Kết quả phân tích hồi quy
Nguồn: Xử lý dữ liệu của nhóm tác giả
Theo bảng phân tích hồi quy (Bảng 5), tất cả các giá trị Sig đều < 0.05. Như vậy, 5 biến độc lập, gồm: NT - Nhận thức của chủ DN về kế toán môi trường; AL - Áp lực của các bên liên quan; QM - Quy mô doanh nghiệp; LV - Lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp; TC – Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp có mối tương quan với biến phụ thuộc Vận dụng kế toán môi trường trong các doanh nghiệp sản xuất tỉnh Hưng Yên (EMA). Phương trình hồi quy được viết như sau:
EMA = .095*NT + 0.019*AL – 0.259*QM + .367*LV + .272*TC + 1.691
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp có ảnh hưởng mạnh nhất đến việc Vận dụng kế toán môi trường của doanh nghiệp. Tiếp đến là các nhân tố: Lĩnh vực sản xuất của doanh nghiệp, Nhận thức của chủ doanh nghiệp, Áp lực các bên liên quan. Tuy nhiên, Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, dù ở quy mô nào, thì doanh nghiệp đều phải quan tâm bảo vệ môi trường và thực hiện trách nhiệm đối với môi trường. Do đó, các giả thuyết H1, H2, H4, H5 được chấp nhận; giả thuyết H3 bị bác bỏ.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, vấn đề môi trường được các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn tỉnh Hưng Yên đang rất quan tâm. Mức độ tác động của các nhân tố đến việc áp dụng kế toán môi trường được sắp xếp lần lượt là Lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh; Tài chính doanh nghiệp; Nhận thức của chủ doanh nghiệp; Áp lực của các bên liên quan và Quy mô doanh nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu trên, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, Lĩnh vực hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Cần phân loại các doanh nghiệp theo lĩnh vực hoạt động để bố trí vào các khu công nghiệp cho phù hợp, xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải đồng bộ giảm thiểu chi phí cho các doanh nghiệp. Tỉnh phải tăng cường các quản lý nhà nước tại các Khu cụm công nghiệp và các dự án sản xuất riêng lẻ, đặc biệt việc tăng cường công tác thanh tra kiểm tra giám sát, hậu kiểm để các doanh nghiệp, các nhà chủ đầu tư, đặc biệt là các chủ đầu tư hạ tầng tập trung hơn nữa trong việc đảm bảo môi trường, đảm bảo chất lượng sống của người dân.
Thứ hai, Tài chính của doanh nghiệp. Hàng năm, các doanh nghiệp phải thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của UBND tỉnh Hưng Yên, do đó lãnh đạo doanh nghiệp cần xem xét, cân nhắc phân bổ số tiền phù hợp để xử lý vấn đề môi trường, áp dụng kế toán môi trường tại doanh nghiệp của mình.
Thứ ba, Nhận thức của chủ doanh nghiệp. Kết quả của nghiên cứu cho rằng, người quản lý/nhà điều hành có hiểu biết về kế toán môi trường, đánh giá cao tính hữu ích của việc thực hiện kế toán môi trường, chấp nhận những chi phí phát sinh liên quan đến việc thực hiện kế toán môi trường sẽ ảnh hưởng đến quyết định thực hiện kế toán môi trường tại doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Do đó, lãnh đạo cần thường xuyên quan tâm và cập nhật những yêu cầu thực hiện kế toán môi trường trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến chi phí môi trường và tác động của các chính sách, cơ chế quản lý của Nhà nước, của tỉnh Hưng Yên về vấn đề môi trường.
Thứ tư, vấn đề Áp lực của các bên liên quan. Các doanh nghiệp sản xuất chịu sức ép chính thức hoặc phi chính thức của các bên liên quan, như: Chính phủ, UBND Tỉnh, từ phía cộng đồng sẽ có tác động tích cực thúc đẩy và khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kế toán môi trường. Tỉnh Hưng Yên cần huy động cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc; giao Sở Tài nguyên và Môi trường và Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp làm nòng cốt tổ chức thực hiện vấn đề môi trường của địa phương./.
1. Alkisher, A. (2013), Factor influencing environmental management accounting adoption in oil and manufacturing firm in Libya, Thesis of doctor Utara Malaysia University.
2. Burritt, R. L., Hahn, T., and Schaltegger, S. (2002), Towards a comprehensive framework for environmental management accounting e links between business actors and environmental management accounting tools, Aust. Accounting Rev, 12(27).
3. Chang, H., and Deegan, C. (2010), Exploring factors influencing environmental Management Accounting adoption at RMIT University, Sixth Asia Pacific Interdisciplinary Research in Accounting (APIRA) conference, Sydney, Australia.
4. Christ, K. L., and Burritt, R. L. (2013), Environmental management accounting: the significance of contingent variables for adoption, Journal of Cleaner Production, 41(0), 163-173.
5. Deegan, C. (2013), The accountant will have a central role in saving the planet really? A reflection on ‘green accounting and green eyeshades twenty years later’, Critical Perspectives on Accounting, 24(6), 448-458. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.cpa.2013.04.004.
6. Jamil, C. Z. M., Mohamed, R., Muhammad, F., and Ali, A. (2015), Environmental management accounting practices in small medium manufacturing firms, Procedia-Social and Behavioral Sciences, 172, 619-626.
7. Ferreira, A, Moulang, C., and Hendro, B. (2010), Environmental management accounting and innovation: an exploratory analysis, Accounting, Auditing & Accountability Journal, 23(7), 920-948.
8. Gadenne, D. L., Kennedy, J., and McKeiver, C. (2009), An Empirical Study of Environmental Awareness and Practices in SMEs, Journal of Business Ethics, 84(1), 45-63.
9. Gauthier, Y., Leblanc, M., Farley, L., and Martel, L. (1997), Introductory Guide to Environmental Accounting, KPMG, Montreal.
10. Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., and Black, W. C. (1998), Multivariate data analysis (5th ed.), Englewood Cliffs, NJ: Pren-tice-Hall International, Inc.
11. Nurul Huda, Y. (2015), Determinants of environmental reporting in Malaysia for industrial product sector, Doctoral dissertation, Universiti Utara Malaysia.
12. Ofoegbu, G. N., and Megbuluba, A. (2016), Corporate environmental accounting information disclosure in the Nigeria manufacturing firms, International journal of management sciences and business research, 5(12), 208-220.
13. Sumiani, Y., Haslinda, Y., and Lehman, G. (2007), Environmental reporting in a developing country: a case study on status and implementation in Malaysia, Journal of Cleaner Production, 15(10), 895-901. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.jclepro.2006.01.012.
14. UBND tỉnh Hưng Yên (2017), Quyết định số 28/2017/QĐ-UBND, ngày 05/12/2017 ban hành quy định bảo vệ môi trường tỉnh Hưng Yên.
15. Vuong, Q. H., Nguyen, M. H. (2024). Better Economics for the Earth: A Lesson from Quantum and Information Theories. AISDL.
16. Wachira, M. M. (2014), Factors influencing the adoption of environmental management accounting practices among firms in Nairobi, Kenya, Masters Thesis, University of Nairobi, retrieved from https://su plus.strathmore.edu/handle/11071/4270.